Các cách phối huyệt khi châm - giáo sư Bành Tịnh Sơn
Trung Y Bút Ký

1: Tuần Kinh Thủ Huyệt (Lấy huyệt theo đường kinh)
Kinh lạc phát nguồn từ tạng phủ, phần đường đi của nó giữa các tạng phủ gọi là "tuần hành trong cơ thể". Từ trong cơ thể kéo dài ra bề mặt cơ thể, đường đi trên bề mặt cơ thể gọi là "tuần hành ngoài cơ thể".
Tạng phủ và đường đi trong cơ thể ví như gốc rễ của cây, đường đi ngoài cơ thể ví như cành lá của cây, cho nên tạng phủ và bề mặt cơ thể thông qua kinh lạc làm cầu nối mà trong ngoài giao thông, phản ánh lẫn nhau. Có thể biểu lý tương thông, trong ngoài hô ứng, trước sau trái phải, ảnh hưởng lẫn nhau, từ đó liên kết thành một chỉnh thể thống nhất, nên gọi là "nội liên tạng phủ, ngoại lạc chi tiết" (bên trong liên kết tạng phủ, bên ngoài nối liền tứ chi).
Tính riêng biệt (đặc dị tính) của kinh lạc: Tính riêng biệt của kinh lạc có ba: một là mỗi kinh mạch đều có đường tuần hành riêng biệt trong và ngoài cơ thể; hai là mỗi kinh mạch đều có thể phản ánh các bệnh và triệu chứng liên quan mật thiết đến nó; ba là mỗi kinh mạch đều có huyệt vị đặc hiệu của nó.
Tính chung (phổ biến tính) của kinh lạc: Tính chung của kinh lạc cũng có ba: một là "nội liên tạng phủ, ngoại lạc chi tiết"; hai là trước sau trái phải, đối xứng nhau, mà hô ứng lẫn nhau; ba là mười hai kinh mạch, kỳ kinh bát mạch đều lần lượt lấy đầu mặt, ngũ quan, đầu mút tay chân làm nơi tập trung phân tán và điểm đầu cuối.
Nay giới thiệu mấy phương pháp điều trị lấy huyệt theo đường kinh như sau:
Biện Chứng Tuần Kinh Thủ Huyệt
Biện chứng thi trị là tinh túy của Trung y. Mỗi khi chữa một bệnh, phải xem xét chứng tìm nguyên nhân, lập pháp thi trị, như tên bắn trúng đích. Ví dụ chứng mất ngủ, nguyên nhân rất nhiều, nhận rõ nguyên nhân gây bệnh, lấy huyệt theo đường kinh, có thể thu được hiệu quả mong đợi hài lòng.
Biện chứng thi trị, lấy huyệt theo đường kinh chữa mất ngủ: Do kích thích tinh thần gây ra thuộc về Tâm, lấy huyệt Thần Môn kinh Tâm. Tức giận làm tổn thương Can gây ra, lấy huyệt Hành Gian kinh Can. Lo nghĩ làm tổn thương Tỳ gây ra, lấy huyệt Tam Âm Giao kinh Tỳ. Buồn bã làm tổn thương Phế gây ra, lấy huyệt Liệt Khuyết kinh Phế. Kinh sợ, bị lạnh hoặc phòng lao làm tổn thương Thận gây ra, lấy huyệt Thái Khê kinh Thận.
Bệnh án: Lưu XX, nữ, 13 tuổi. Học sinh tiểu học Liễu Điều Hồ, thành phố Thẩm Dương. Ngày 14 tháng 7 năm 1974 đến khám.
Mất ngủ đã 4 tháng, mỗi đêm không ngủ được trong thời gian dài, rất khó ngủ được mà lại chỉ một lát là tỉnh. Đã từng dùng các loại thuốc tây, thuốc đông y an thần, dưỡng tâm, bổ huyết, v.v. đều không hiệu quả.
Khám thấy: Thần sắc mệt mỏi, sắc mặt xanh vàng, hình thể gầy yếu, mạch trầm huyền, quan trái rõ. Hỏi mẹ bệnh nhân, nói bình thường tính tình nóng nảy, thường xuyên tức giận, sau khi tức giận thì mất ngủ càng nặng. Chẩn đoán: Chứng mất ngủ do Can dương thượng cang.
Điều trị: Chứng thực nên dùng tả pháp, nên châm Đại Đôn. Nhưng Đại Đôn là huyệt Tỉnh, không thể dùng thủ pháp, bèn lấy huyệt Huỳnh là Hành Gian thay thế. Hiệu quả: Mỗi ngày một lần, châm liên tục bốn lần, có thể ngủ được 8 tiếng, từ đó khỏi hẳn.
2: Thủ Vĩ Tuần Kinh Thủ Huyệt (Lấy huyệt theo đầu cuối đường kinh)
Tức là bệnh ở huyệt khởi đầu của kinh mạch, châm huyệt kết thúc của nó; bệnh ở huyệt kết thúc của kinh mạch, châm huyệt khởi đầu của nó. Khởi đầu là đầu, kết thúc là cuối, cho nên gọi là "phương pháp lấy huyệt theo đầu cuối đường kinh". Phương pháp này điều trị đau, tê liệt cục bộ ở huyệt đầu cuối kinh mạch, mà đối với mụn nhọt độc (đinh độc) đặc biệt hiệu quả.
Vị trí thường phát của đinh độc là mặt, môi và tay chân, lại thường mọc trên huyệt vị. Triệu chứng chính: Đau, sốt, sợ lạnh, phiền lòng, buồn nôn. Cũng có trường hợp xuất hiện sợi tơ đỏ gọi là hồng ty liệu. Có thể ở chỗ cuối của sợi tơ đỏ, dùng kim tam lăng chích máu.
Bệnh án: Vương XX, nữ, 16 tuổi. Học sinh trung học某, thành phố Thẩm Dương. Ngày 20 tháng 10 năm 1974 đến khám.
Đột nhiên má phải sưng đỏ đau, cạnh xương mũi nổi một mụn nước, đã từng nôn một lần, phiền lòng đặc biệt dữ dội. Lưỡi khô, sắc đỏ, mạch trầm sác, quan phải càng rõ. Xét nghiệm máu: Bạch cầu 15400/mm³, phân thùy 90%, lympho 10%.
Biện chứng: Từ phân tích mạch chứng, thuộc nhiệt tích trong Vị, phát ra ở mặt, mụn nước mọc đúng ở huyệt Tứ Bạch kinh Vị. Chẩn đoán: Đinh mặt.
Điều trị: Áp dụng phương pháp lấy huyệt theo đầu cuối đường kinh, chọn huyệt Lệ Đoài ở đầu ngón chân thứ hai bên phải của kinh Vị. Dùng kim không gỉ số 28 dài 5 phân, châm nhanh mạnh, không dùng thủ pháp. Vì kim thô châm mạnh huyệt Tỉnh, chính là tả pháp.
Hiệu quả: Sau khi kim vào, lưu kim 20 phút, phiền lòng giảm bớt. Sau thủ thuật xét nghiệm máu: Bạch cầu 8100/mm³, phân thùy 70%, lympho 30%. Ngày hôm sau tái khám, mụn nước trên mặt đã hết, trừ má phải hơi đỏ, mọi triệu chứng đều biến mất.
3: Lưỡng Đoan Tuần Kinh Thủ Huyệt (Lấy huyệt theo hai đầu đường kinh)
Sau khi chẩn đoán xác định là bệnh của một kinh nào đó, liền lấy huyệt ở hai đầu khởi và chỉ của kinh đó, do hai người cầm kim cùng châm, đồng thời vào kim, đồng thời dùng thủ pháp, đắc khí xong đồng thời rút kim. Ví dụ: Đau sườn, thuộc vị trí tuần hành kinh mạch của kinh Đởm, liền lấy hai huyệt Túc Khiếu Âm, Đồng Tử Liêu. Phương pháp này đối với một số bệnh chủ yếu là đau như thống tý, đau dạ dày và rối loạn chức năng vận động dẫn đến đi lại, giơ tay bị hạn chế, v.v., rất hiệu quả.
Bệnh án: Vương XX, nam, 34 tuổi. Công nhân nhà máy xe đạp Thẩm Dương. Ngày 31 tháng 1 năm 1975 đến khám.
Khoảng nửa tháng nay, cánh tay trái từ vai đến tay tê, ngón thứ tư cảm giác chậm chạp, giơ tay khó khăn, tay không với tới đầu.
Khám thấy: Tinh thần mệt mỏi, sắc mặt vàng úa, lưỡi nhuận, tiểu ít, chi dưới hơi phù, sáu mạch trầm tế. Biện chứng: Trầm tiềm thủy súc (chìm lắng nước tích tụ), ngón thứ tư không linh hoạt, thuộc kinh Tam Tiêu, quyết độc bất lợi (đường thủy không thông), tiểu ít hơi phù. Mà kinh Tam Tiêu bên trái xảy ra tắc nghẽn, khí huyết không đủ, nên tê.
Chẩn đoán: Cơ tý (Tê cơ).
Điều trị: Áp dụng lấy huyệt theo hai đầu đường kinh, châm Quan Xung, Ty Trúc Không bên trái. Hiệu quả: Sau khi châm tay trái có thể giơ lên, tê cũng nhẹ đi. Châm 2 lần hết tê, 3 lần mọi triệu chứng đều khỏi. Đến nay không có gì bất thường.
4: Viễn Đoan Tuần Kinh Thủ Huyệt (Lấy huyệt theo đầu xa đường kinh)
Phương pháp này khác với phương pháp lấy huyệt theo đầu cuối đường kinh, phương pháp lấy huyệt theo đầu cuối chỉ giới hạn ở một kinh, phương pháp này là của nhiều kinh. Lấy huyệt khởi của ba kinh âm tay và huyệt chỉ của ba kinh dương tay. Cũng không nhất thiết câu nệ huyệt đầu cuối, huyệt gần huyệt đầu cuối cũng có hiệu quả như nhau.
Bệnh án: Vương XX, nữ, 19 tuổi. Thanh niên về nông thôn công xã Lương Sơn, huyện Tân Dân, tỉnh Liêu Ninh. Ngày 30 tháng 10 năm 1975 đến khám.
Khoảng hơn một tháng nay do bị lạnh, ngón tay co rút, 1 ngày mấy lần. 3 ngày gần đây ngón tay co cứng, nắm chặt khó mở, dùng lực mạnh để bẻ, thì kêu đau mà vẫn không duỗi được. Đã từng uống thuốc, châm cứu điều trị đều không hiệu quả. Khám thấy: Hình thể khá khỏe mạnh, sắc mặt trắng bệch, ngón tay cứng đờ và lạnh như băng, lưỡi nhuận không rêu, sáu mạch trầm trì.
Biện chứng: Từ hình sắc mạch chứng, đều thuộc hàn làm huyết ngưng, kinh lạc bị trở tắc mà ứ trệ.
Chẩn đoán: Kê trảo phong (Gió móng gà). Điều trị: Lấy huyệt cục bộ, châm Bát Tà, Tam Gian, Đại Lăng, v.v. đều không hiệu quả. Lấy huyệt lân cận, Khúc Trì, Thủ Tam Lý, Thiên Tỉnh, v.v. cũng không hiệu quả. Bèn áp dụng châm huyệt đầu xa của sáu kinh tay, hoặc huyệt đầu hoặc huyệt cuối, tùy theo đường đi của nó mà định.
Hiệu quả: Huyệt đầu cuối ở đầu xa, đối với bệnh ngón tay hiệu quả như trống ứng với dùi. Châm Trung Phủ thì ngón cái mở, châm Nghênh Hương thì ngón trỏ duỗi, châm Thiên Trì thì ngón giữa lỏng ra, châm Ty Trúc Không thì ngón áp út linh hoạt, châm Cực Tuyền cần nâng vai lộ nách, có thể đổi thành Thanh Linh, thì ngón út duỗi thẳng. Ngón út thuộc hai kinh Tâm và Tiểu Trường, biểu lý liên quan, châm một kinh mà hai kinh cùng có hiệu quả. Châm xong liền khỏi.
5: Biểu Lý Tuần Kinh Thủ Huyệt
Kinh lạc "nội liên tạng phủ", tạng phủ đều có quan hệ biểu lý, kinh lạc cũng theo đó mà biến ứng, bệnh biểu chữa lý, bệnh lý chữa biểu, gọi là biểu lý tuần kinh thủ huyệt, nhưng cần lấy biện chứng thủ huyệt làm nguyên tắc.
Bệnh án: Giả XX, nam, 46 tuổi. Công nhân nhà máy tấm mỏng Thẩm Dương. Ngày 9 tháng 9 năm 1975 đến khám. Chủ tố: Từ năm 1966 bắt đầu đau dạ dày, do ăn uống đình trệ mà xảy ra, lúc nhẹ lúc nặng. Mấy tháng gần đây thường xuyên đau, đại tiện lỏng, tứ chi mệt mỏi, cơ bắp teo gầy. Cơn đau rất khổ sở, uống thuốc châm cứu, điều trị không khỏi.
Khám thấy: Mặt vàng gầy, tay chân lạnh. Lưỡi nhuận không rêu, rìa lưỡi có vết răng, mạch trầm trì, quan phải càng nặng.
Biện chứng: Vị chủ nạp cốc (nhận thức ăn), Tỳ chủ vận hóa, Tỳ hư không hóa cốc thì đại tiện lỏng. Tỳ chủ tứ chi, thì tay chân lạnh; Tỳ chủ cơ nhục thì hình thể gầy; mạch trầm trì thì chủ lý hàn.
Chẩn đoán: Đau dạ dày hư hàn. Điều trị: Đau ở Vị, nguyên nhân bệnh ở Tỳ. Hư hàn thì nên cứu, dùng cứu cảm giác nhiệt, mồi ngải nhỏ như hạt lúa mì, cứu huyệt Lạc của Tỳ là Công Tôn. Mỗi lần cứu hơn 10 tráng, lấy cảm giác nóng làm mức độ.
Hiệu quả: Cứu 1 lần đau giảm, tổng cộng 12 lần, tay chân dần ấm, đại tiện thành hình, cơ bắp dần đầy đặn, đau dạ dày khỏi hẳn. 1 năm sau tái khám, không tái phát.
6: Nguyên Lạc Tuần Kinh Thủ Huyệt
Lấy huyệt theo Nguyên-Lạc tuần kinh, nên nhận rõ gốc bệnh, tuần theo lạc mạch của bệnh, phương pháp lấy huyệt biện chứng Nguyên-Lạc, rất có hiệu quả.
Bệnh án: Dương XX, nam, 35 tuổi. Quân đội giải phóng nhân dân . Ngày 6 tháng 7 năm 1976 đến khám.
Mí mắt trên không thể nhắm lại, không thể chớp, nhìn lâu thấy mỏi, đôi khi đau đầu, dần dần phát triển, chữa lâu không khỏi.
Khám thấy: Thể trạng khỏe mạnh thần sắc mệt mỏi, sắc mặt hồng nhuận, có vẻ u uất, rất khổ sở vì bệnh mí mắt. Lưỡi không rêu, sáu mạch trầm hoãn, quan phải xích trái đều vô lực.
Biện chứng: Sách "Linh Khu - Kinh Cân Thiên": "Thái dương vi mục thượng cương, dương minh vi mục hạ cương." (Thái dương là bờ trên mắt, Dương minh là bờ dưới mắt.) Nay bệnh đã mấy năm, ổ bệnh ở Thái dương, nên chữa Túc Thái dương, đồng thời chữa Túc Thái âm, ngũ luân bát quách, mí mắt đều thuộc kinh Tỳ. Chẩn đoán: Liệt mí mắt trên.
Điều trị: Lấy huyệt Nguyên của Túc Thái dương là Kinh Cốt, và huyệt Lạc của kinh Thiếu âm Túc có quan hệ biểu lý với nó là Đại Chung, châm hai huyệt này, cứu huyệt Tỳ Du Túc Thái âm chủ quản toàn bộ mí mắt.
Hiệu quả: Áp dụng phương pháp này, điều trị 15 lần, có thể làm động tác chớp mắt, cũng không còn mỏi mắt, chữa 20 lần thì hồi phục bình thường.
7: Mộ Huyệt Tuần Kinh Phối Huyệt
Tại sao sáu phương pháp trên đều gọi là lấy huyệt, mà đến phương pháp thứ bảy lại gọi là phối huyệt? Bởi vì điều trị bệnh lâu ngày, ngoài việc lấy huyệt theo kinh, phải phối hợp với huyệt Mộ, mới có thể thu được hiệu quả mong đợi.
Bệnh án: Vương XX, nam, 67 tuổi. Gia thuộc nhà máy Ngũ Tam. Ngày 3 tháng 10 năm 1976 đến khám.
Ho suyễn nhiều năm, đờm cũng rất nhiều. Mùa hè nhẹ, mùa đông nặng, lâu ngày không phân biệt mùa, khi phát bệnh thì nặng, khi không phát bệnh thì nhẹ. Đã dùng nhiều phương pháp điều trị không hiệu quả.
Khám thấy: Thể trạng suy nhược thần sắc mệt mỏi, sắc mặt hơi trắng, hơi thở gấp gáp, họng có tiếng đờm, phát ra theo hơi thở. Rêu lưỡi vàng, mạch sác. Biện chứng: Mạch chứng kết hợp, thuộc về Phế nhiệt, khí thúc đờm kêu, giống như suyễn. Thể trạng suy nhược thần sắc mệt mỏi, bệnh lâu ngày thì hư.
Chẩn đoán: Đàm suyễn. Điều trị: Lấy huyệt theo kinh, lấy huyệt Mộ của kinh Phế là Trung Phủ làm chính. Phối hợp Thiên Đột chữa tiếng đờm, Đản Trung chữa khí suyễn, Phong Long để hóa đờm.
Hiệu quả: Châm chín lần, triệu chứng biến mất. Sau đó lại phát tác vài lần, khoảng cách dài hơn, triệu chứng nhẹ hơn. Dùng phương pháp trên, mỗi lần chữa đều hiệu quả, nhưng chưa thể trị tận gốc.
8: Khích Huyệt Tuần Kinh Phối Huyệt
Bệnh lâu ngày dùng huyệt Mộ, bệnh mới mắc dùng huyệt Khích, là pháp tắc phối huyệt trong điều trị châm cứu.
Bệnh án: Đinh XX, nam, 16 tuổi. Đội Hạ Húc, công xã Tiểu Truân, thành phố Liêu Dương, tỉnh Liêu Ninh. Năm 1970 học viện chúng tôi tổ chức đội y tế về nông thôn chữa bệnh. Đi qua cửa một nhà, từ trong sân chạy ra một phụ nữ khoảng 40 tuổi, chặn tôi lại, mặt thất sắc hoảng sợ nói: "Bác sĩ mau vào nhà tôi cứu mạng con tôi!" Tôi lập tức chạy vào nhà bà ấy. Nghe nói con trai bà ấy hàng năm vào mùa xuân đều bị chảy máu mũi (nục huyết), hôm nay đột nhiên chảy máu ồ ạt không ngừng, dùng bông gòn nhét mũi, máu lại chảy ra từ miệng, không cách nào cầm được.
Khám thấy: Nằm ngửa trên giường sưởi, lỗ mũi nhét bông gòn, máu chảy ra từ miệng. Mặt dính đầy máu, dưới đất loang lổ máu nước. Tinh thần mệt mỏi, sắc mặt trắng bệch, môi nhạt màu, giọng nói yếu hơi thở ngắn. Tự thuật đầu váng tim đập nhanh, lưỡi đỏ mà không rêu, như quả cật heo đã lột bỏ màng mỡ, gọi là "lưỡi âm hư", sáu mạch đều khâu (rỗng).
Biện chứng: Tứ chẩn kết hợp, chứng thuộc âm hư. Phế khai khiếu ở mũi, là biểu hiện của Phế hư huyết hư. Chẩn đoán: Nục huyết (Chảy máu mũi). Điều trị: Mất máu quá nhiều, mạch chứng đều thể hiện hư tượng, khí yếu huyết hao, nên cầm máu trước, để phòng hư thoát. Để cấp cứu, trước tiên dùng sợi chỉ buộc chặt vào khe đốt thứ hai, thứ ba của hai ngón giữa, là phương kinh nghiệm hiệu quả cầm chảy máu mũi. Sau đó nhanh chóng châm hai bên Nghênh Hương, máu hơi ngừng. Lại châm hai bên Khổng Tối, đắc khí xong dùng bổ pháp, máu lập tức ngừng chảy.
Hiệu quả: Khổng Tối là huyệt Khích của kinh Phế, huyệt Khích là huyệt đặc hiệu chữa bệnh mới mắc. Phế khai khiếu ở mũi, bệnh nhân bình thường huyết hư phế nhiệt, mỗi mùa xuân chảy máu mũi, lần này là nặng nhất. Lần này mất máu quá nhiều, sở dĩ có thể hiệu quả nhanh chóng là do, chủ yếu là trước tiên dùng chỉ buộc chặt ngón giữa để cấp cứu cầm máu. Sau đó châm Nghênh Hương, làm co mạch máu cục bộ. Bệnh cấp phối huyệt Khích, dùng để bổ Phế theo kinh, từ đó chảy máu mũi được cầm nhanh chóng.
9. Nghiệm Phương Thủ Huyệt (Lấy huyệt theo phương kinh nghiệm)
Các phương cổ để lại như Tứ tổng huyệt, Bát hội huyệt, Mã Đan Dương thập nhị huyệt và kinh nghiệm lấy huyệt của tiền nhân như "Bách Chứng Phú", "Ngọc Long Ca", "Trửu Hậu Ca", v.v. tổng cộng có hơn tám mươi loại, đều là kết tinh kinh nghiệm y liệu của các đời, gọi là lấy huyệt theo phương kinh nghiệm.
10. Biểu Lý Thủ Huyệt
Tạng phủ đều có quan hệ biểu lý, nối liền bằng kinh lạc. Châm cứu chữa bệnh lấy huyệt biểu lý tương hỗ, hiệu quả rõ rệt. Ví dụ Phế có bệnh chữa Đại trường, Phế nhiệt đau họng châm Tam Gian, Hợp Cốc của kinh Đại trường; Đại trường có bệnh chữa Phế, tiêu chảy châm Xích Trạch kinh Phế. Các kinh khác, đều giống nhau:
Bệnh tim hồi hộp, hay quên, phiền lòng, châm Thiếu Trạch kinh Tiểu trường; đường đi kinh Tiểu trường như bộ vị nào đó đau hoặc tê liệt có thể châm Thiếu Hải kinh Tâm. Can chủ cân, cân có bệnh có thể châm huyệt Hợp của kinh Đởm là Dương Lăng Tuyền; Đởm kinh thực nhiệt đau sườn, tai điếc, có thể châm Kỳ Môn kinh Can.
Tỳ hư không hóa cốc, châm huyệt Hợp kinh Vị là Túc Tam Lý; đau dạ dày không chịu nổi, châm huyệt Lạc của kinh Tỳ là Công Tôn. Thận hư đau lưng, châm Thận Du, Thứ Liêu của kinh Bàng quang; Bàng quang đột nhiên tích nước, châm Đại Hách, Hoang Du kinh Thận.
Về phương pháp phối huyệt Nguyên-Lạc biểu lý, giới châm cứu đều biết, không cần nhắc lại.
11. Ngũ Hành Sinh Khắc Thủ Huyệt
Tâm thuộc Hỏa trong ngũ hành, Can thuộc Mộc trong ngũ hành, Mộc sinh Hỏa, Can là mẹ của Tâm, Tâm là con của Can. Theo nguyên tắc điều trị ngũ hành, "Hư tắc bổ kỳ mẫu, thực tắc tả kỳ tử" (Hư thì bổ mẹ nó, thực thì tả con nó), ví dụ tức giận làm tổn thương Can, Can thực không ngủ được, tả huyệt Thần Môn kinh Tâm là có thể ngủ được. Ví dụ do Tâm âm không đủ, mất ngủ hay mơ, tim đập nhanh dễ kinh sợ, bổ huyệt Kỳ Môn kinh Can hiệu quả. Lấy một ví dụ, còn lại có thể suy ra tương tự.
12. Giao Kinh Mâu Thích
Châm cứu lấy huyệt, lợi dụng đặc điểm kinh mạch trái phải tương thông, trước sau hô ứng, kiềm chế lẫn nhau, điều tiết lẫn nhau, từ hơn hai nghìn năm trước đã có phương pháp châm bên lành, chích lạc gọi là Mâu (liao) thích, châm kinh gọi là Cự thích. Sau này không phân biệt châm kinh hay chích lạc, phàm thuộc về lấy huyệt ở bên lành đều gọi là "Giao kinh mâu thích". Chúng tôi nghiên cứu phương pháp lấy huyệt này, qua thực tiễn lâu dài, làm cho "Giao kinh mâu thích" xưa dùng cho nay, phát triển thành năm phương pháp:
Mâu thích cục bộ
Chỗ đau chỉ là một mảng rất nhỏ, đường kính trong vòng 1 cm. Tìm đúng điểm đau, vẽ dấu hiệu, châm vào vị trí tương ứng ở bên đối diện, theo hư thực mà dùng thủ pháp bổ tả, lấy điểm đau biến mất làm mức độ. Phương pháp kiểm chứng, dùng ngón tay ấn vào dấu hiệu đã vẽ.
Mâu thích trái phải
Có thể sử dụng các loại phương pháp lấy huyệt, sau khi chọn định huyệt vị, bệnh trái châm phải, bệnh phải châm trái, châm vào huyệt vị cùng tên ở bên lành.
Mâu thích song song
Áp dụng cho vùng ngực bụng và lưng, kinh huyệt hai bên trước sau. Nhâm mạch và Đốc mạch, huyệt vùng bụng kinh Thận và huyệt Hoa Đà giáp tích, huyệt vùng bụng kinh Vị và hàng thứ nhất kinh Bàng quang, huyệt kinh Tỳ và hàng thứ hai kinh Bàng quang, đều là đối xứng trước sau.
Trừ Nhâm mạch và Đốc mạch là huyệt đơn hành, mười hai kinh khác đều phân bố trái phải. Ví dụ chỗ đau ở Kỳ Môn trái, thì châm Kỳ Môn phải; chỗ đau ở Đại Cự phải, thì châm Đại Cự trái. A thị huyệt cũng có thể sử dụng như vậy. Bệnh nhân viêm quanh khớp vai, hố nách trên, dưới xương đòn thường xuất hiện ấn đau rõ rệt, tìm đúng điểm đau, đánh dấu, châm vào vị trí tương ứng bên lành, sau khi châm liền dùng tay ấn điểm đau, điểm đau có một trung tâm, bên đối diện cũng có, không nhất định một kim là trúng yếu huyệt, có khi cần ba, bốn kim mới làm điểm đau bên bệnh biến mất.
Mâu thích trước sau
Phàm đau tất có một điểm đau trung tâm, tìm được xong, châm vào chỗ đối diện chính xác ở bên kia, tức là đau ngực châm lưng, đau lưng châm ngực; đau lưng châm bụng, đau bụng châm lưng. Đối càng chuẩn, hiệu quả càng tốt. Trước sau đều có dấu hiệu, có thể căn cứ vào đó tìm lấy trên, dưới, trái, phải. Ngực Cưu Vĩ đối Chí Dương, bụng rốn đối Mệnh Môn. Chúng tôi dùng phép mâu thích chữa đau lưng, tìm được điểm đau, lại đo khoảng cách của nó với Mệnh Môn, ví dụ điểm đau ở dưới Mệnh Môn 5 cm, lại sang trái 6 cm, tức là châm vào chỗ dưới rốn 5 cm, lại sang trái 6 cm, châm xong cơn đau liền hết. Ngực suy ra tương tự. Nhưng nếu chỗ đau đúng vào Chí Dương, nên châm Cưu Vĩ, ghi nhớ theo quy tắc châm cứu, không được quá sâu.
Mâu thích trên dưới
Áp dụng cho đau diện tích nhỏ ở tứ chi. Điểm khác biệt của nó với bốn phương pháp trên, nằm ở chỗ châm vào mặt kia của chi bị bệnh. Ví dụ điểm đau chi trên ở mặt gấp thì châm mặt duỗi, điểm đau ở mặt duỗi thì châm mặt gấp. Mấu chốt của việc châm nằm ở chỗ đối xứng chính xác. Chi dưới suy ra tương tự.
Giải thích:
Mâu thích trái phải áp dụng cho các loại bệnh, bốn loại mâu thích còn lại, đều áp dụng cho chứng đau.
Phương pháp khác của mâu thích trước sau, cũng có thể lấy huyệt theo kinh. Ví dụ đau dạ dày châm Vị Du, giun chui ống mật châm Đởm Du; tim đập nhanh châm Thần Đường, di tinh châm Chí Thất. Tùy chứng linh hoạt vận dụng, không được câu nệ vào một phương pháp.
13.Tiền Hậu Thủ Huyệt (Lấy huyệt trước sau)
Lấy huyệt trước sau khác với mâu thích trước sau, mâu thích trước sau phải là điểm đau trước sau đối xứng nhau, không sai lệch chút nào. Mâu thích trước sau giới hạn trong việc điều trị đau. Lấy huyệt trước sau thì có thể chữa các loại bệnh, cũng không cần huyệt vị trước sau đối xứng chính xác. Ví dụ: "Trường Tang Quân Thiên Tinh Bí Quyết Phối Huyệt Pháp" chính là một bài ca ghi lại việc lấy huyệt trước sau.
Ví dụ phối huyệt trước sau:
Thức ăn tích tụ trong dạ dày: Toàn Cơ phối Tam Lý.
Tạng táo: Gian Sử phối Phế Du.
Chuột rút bắp chân: Thừa Sơn phối Tam Âm Giao.
Thoát vị: Trường Cường phối Đại Đôn.
Chân yếu khó đi: Tuyệt Cốt phối Xung Dương.
Ngực bụng đầy tức: Âm Giao phối Thừa Sơn.
Phong thấp lạnh tê: Hoàn Khiêu phối Dương Lăng Tuyền.
14. Thượng Hạ Thủ Huyệt (Lấy huyệt trên dưới)
Ví dụ minh họa:
Bệnh đầu mặt: Châm Chí Âm.
Bệnh lưng chân: Châm Phong Phủ.
Đau gót chân: Lấy Phong Trì.
Bệnh Tỳ khí huyết ứ trệ: Hợp Cốc phối Tam Âm Giao.
Chân yếu đau nhức (cước khí): Kiên Tỉnh phối Túc Tam Lý.
Đau bụng quanh rốn: Âm Lăng Tuyền phối Dũng Tuyền.
Ù tai đau lưng: Địa Ngũ Hội phối Nhĩ Môn.
Đau răng hoặc đau họng: Nhị Gian phối Túc Tam Lý.
Thương hàn quá kinh không ra mồ hôi: Kỳ Môn phối Thông Lý.
Sưng lạnh mặt sưng sôi bụng: Túc Tam Lý phối Nội Đình.