Các Phương Pháp Phối Huyệt Thường Dùng - Điểm và Diện - giáo sư Bành Tịnh Sơn
Trung Y Bút Ký

Nhất châm liệu pháp, chính là chỉ châm một kim, một kim không nhất thiết bằng một huyệt. Trong mười bốn kinh mạch trừ Nhâm mạch, Đốc mạch ở đường giữa trước sau, mười hai kinh mạch đều là huyệt đối xứng hai bên trái phải, do đó một kim và một huyệt khác nhau. Huyệt Du còn gọi là điểm kích thích, cái mà chỉ châm một kim gọi là một điểm. Huyệt của mười hai kinh đều là hai điểm cùng tên trái phải, chỉ dùng một bên cũng gọi là một điểm. Huyệt ngoài kinh như Tứ Phùng, Bát Tà, Bát Phong đều là tám điểm; huyệt Thập Tuyên là mười điểm; Thập nhị Tỉnh huyệt là mười hai điểm; những cái này không nằm trong phạm vi một điểm. Nhưng nếu chỉ chọn một vị trí trong Tứ Phùng, Bát Tà, Thập Tuyên, Thập nhị Tỉnh, vẫn có thể gọi là một điểm.
(1) Ví Dụ Một Điểm
Nhâm mạch và Đốc mạch có nhiều huyệt đặc hiệu chỉ lấy một huyệt có thể chữa bệnh.
1. Đốc Mạch
Trường Cường: Có thể tăng cường sức khỏe toàn thân. Trĩ, mụn cơm, cứu xung quanh gốc mụn cơm bằng mồi cứu nhỏ, cấp tính một lần có thể khỏi. Đau trĩ, sa trực tràng, chảy máu, sau khi châm lần đầu, lượng máu có thể tăng lên, sau đó giảm dần. Thanh niên thận hư di tinh, phụ nữ khí hư không ngừng, trẻ em đái dầm, người già cơ vòng hậu môn và bàng quang giãn lỏng, thường bị trung tiện nhiều hoặc đại tiểu tiện không tự chủ, huyệt Trường Cường đều có thể điều trị, hiệu quả. Cách châm: Nằm nghiêng, hai gối cong về phía ngực, làm cho mông nhô ra sau, dùng kim hướng về phía cột sống châm vào 2-3 thốn, châm sâu hơn, hiệu quả tốt hơn.
Dương Quan: Chữa đau thoát vị, đau lưng gối, đau thần kinh tọa, tiền triệu tai biến mạch máu não, liệt cơ vận động.
Mệnh Môn: Nguyên khí của con người, bảo tồn ở Mệnh Môn. Phía trước đối diện với rốn, dinh dưỡng duy trì tác dụng sinh tồn của cá thể và tác dụng sinh sản. Là cửa ngõ của tính mệnh, nên gọi là "Mệnh Môn". Chủ trị: Nam nữ tinh lực giảm sút, phụ nữ xuất huyết tử cung cơ năng, khí hư trắng đỏ. Lại chữa các loại chảy máu như trĩ lậu, trĩ phong, ho ra máu, chảy máu mũi, v.v. Lại là huyệt nổi tiếng chữa đau lưng, đau lưng mâu thích lấy Mệnh Môn làm dấu hiệu tìm huyệt.
Chí Dương: Bệnh suy nhược do bệnh phổi, bệnh khí quản gây ra, chán ăn do bệnh dạ dày, tiêu hóa không tốt, cơ thể gầy yếu, hình dung tiều tụy, đều có thể dùng huyệt này. Lại chữa đau co kéo tay chân do liệt tủy sống.
Thần Đạo: Huyệt ở trong Tâm Du, ngang với Tâm Du, Thần Đường, Tâm chủ tàng Thần. Huyệt Thần Đạo chữa bệnh thần chí, bệnh tim, đau đầu, hay quên, rối loạn nhịp tim, suy nhược thần kinh, trẻ em co giật.
Thân Trụ: Cảm mạo sốt, châm Thân Trụ có thể hạ sốt, bệnh điên, trẻ em cam tích, là huyệt bảo vệ sức khỏe cho trẻ em, có thể châm có thể cứu. Phòng ngừa cảm mạo và mọi bệnh truyền nhiễm, châm đắc khí, hành bổ pháp, lưu kim 20 phút, mỗi ngày 1 lần, liên tục 3 ngày.
Đại Chùy: Tăng cường sức khỏe, kích thích dương khí toàn thân, phấn chấn tinh thần, bổ hư phù nhược. Là huyệt nổi tiếng chữa sốt rét. Cũng chữa nôn mửa, chảy máu mũi, sốt do bệnh phổi. Viêm mũi có thể cứu huyệt này. Dùng kim thô châm Đại Chùy, cảm giác kim đến hai vai cánh tay, có thể chữa bệnh rỗng tủy sống.
Bảy huyệt trên, Trường Cường ở phía trước xương cùng cụt, sáu huyệt còn lại đều ở giữa hai mỏm gai đốt sống. Tìm huyệt phải chuẩn, cầm kim phải thẳng, lực ngón tay phải mạnh. Độ sâu châm vào, tùy theo người gầy béo mà khác nhau, lấy đắc khí làm chính. Cảm giác kim có cái tê ở dưới kim, có cái tê ở phía trước kim, cũng có thể điều chỉnh tùy theo nhu cầu.
Cường Gian: Chủ trị động kinh, chứng cuồng. Các chứng do cao huyết áp, huyết áp thấp gây ra như cứng gáy, nôn mửa (triệu chứng kích thích màng não), đau đầu, huyễn vựng đều hiệu quả.
Bách Hội: Huyệt tổng của các kinh dương. Phàm bệnh thuộc hệ thần kinh não đều hiệu quả. Trĩ, sa trực tràng, bệnh tim, cứu Bách Hội đa phần hiệu quả. Đau đầu do ứ huyết, có thể dùng kim tam lăng chích Bách Hội chảy máu bằng hạt đậu.
Nhân Trung: Cấp cứu sốc, vì ở vùng tam giác, châm nên đặc biệt thận trọng, có động mạch môi trên, dùng kim nên nhỏ, điểm châm vào ở 1/3 trên của rãnh Nhân Trung, dùng một tay véo môi trên lên, dùng góc 45° châm xiên. Cũng chữa phù thũng, tiểu đường. Chữa đau lưng cột sống có "Nhân Trung liệu pháp".
2. Nhâm Mạch
Quan Nguyên (huyệt Mộ của Tiểu trường): Còn gọi là Đan Điền, tàng trữ nguyên khí tiên thiên, là nơi hội tụ của Túc tam âm kinh và Nhâm mạch, cái gọi là "ý thủ đan điền" khi luyện khí công chính là ở đây. Dùng tay ấn vào cảm giác có khí hoạt động, không mạnh không yếu, bình tĩnh là tốt. Nếu ấn như bánh hấp, không có phản ứng gì, là tượng khí tiên thiên hư suy. Cứu Quan Nguyên có thể bổ nguyên khí. Chữa bệnh phụ nữ, các bệnh hệ sinh dục, tiết niệu nam nữ; các chứng bụng dưới thường cảm thấy hư lạnh, tiểu tiện trắng đục, bệnh lậu, di tinh, v.v., đều có thể cứu. Cũng có thể châm cứu.
Thạch Môn (huyệt Mộ của Tam tiêu): Chữa bệnh đường ruột, viêm thận phù thũng đặc biệt hiệu quả đối với cổ trướng. Sách "Châm Cứu Đại Thành - Ca về huyệt cấm châm": "Thạch Môn châm cứu ưng tu kỵ, nữ tử chung thân dựng bất thành" (Châm cứu Thạch Môn nên cần phải kiêng, phụ nữ cả đời không thể mang thai), tuy không hoàn toàn đúng, nhưng huyệt Thạch Môn lại có tác dụng tránh thai. Phương pháp: Dùng phép đo xương tìm đúng huyệt vị, châm đắc khí, dùng tả pháp, lưu kim 20 phút, cứ 5 phút hành thủ pháp một lần. Châm liên tục ba ngày. Mỗi lần sau khi hành kinh, châm ba lần theo phương pháp này. Huyệt Thạch Môn có thể tránh thai, cách đó 5 phân là huyệt Tứ Mãn của kinh Thận, có thể chữa vô sinh. Thạch Môn thuộc Nhâm mạch, Nhâm chủ bào thai, nên có tác dụng tránh thai. Thận là gốc của tiên thiên, châm Tứ Mãn thì làm cho tiên thiên mạnh mẽ, nên chữa vô sinh. Hai huyệt chỉ cách nhau 5 phân, hiệu quả hoàn toàn khác nhau, là một vấn đề khá thú vị.
Thần Khuyết: Huyệt ở giữa rốn, thông thường không thể châm, có thể thi hành cứu gián tiếp. Chứng thoát trong tai biến mạch máu não, sa nội tạng, sa trực tràng, v.v. đều có thể cứu. Trước tiên dùng giấy bông mỏng đặt lên rốn, dùng ngón tay ấn xuống thành chỗ lõm, trong chỗ lõm đổ đầy muối, mồi ngải to bằng quả táo tàu, thông thường cứu 7 tráng, chứng thoát trong tai biến mạch máu não có khi cứu đến mấy chục tráng, đến khi mồ hôi thu lại, tứ chi ấm, thần thức tỉnh táo thì dừng, có thể cứu được chứng nguy kịch.
Trung Quản (huyệt Mộ của Vị): Căn cứ vào vị trí của nó, ở giữa dạ dày, là huyệt nổi tiếng chữa bệnh dạ dày. Cũng chữa giun đũa chui vào dạ dày, gây đau dữ dội, muốn nôn mà không ra được, châm Trung Quản lưu lâu, giun liền từ miệng ra, cũng là việc thường gặp trong lâm sàng.
Cự Khuyết (huyệt Mộ của Tâm): Huyệt Mộ là huyệt phối hợp thường dùng cho bệnh mãn tính. Có thể chữa bệnh mạch vành thường xuyên không thông畅 ở vùng tim, đối với co thắt cơ hoành, nôn mửa do thần kinh, tiêu hóa không tốt do viêm dạ dày mãn tính, đều có thể sử dụng. Huyệt Cưu Vĩ ở dưới mỏm kiếm xương ức, gần với dây chằng tròn gan và cơ hoành, độ khó khi châm vào tương đối lớn. Chữa bệnh tâm thần, lần đầu dùng mười ba huyệt của Tôn Tư Mạo, lần thứ hai dùng Cưu Vĩ, có thể thay bằng Cự Khuyết.
Trung Đình: Do vị trí của huyệt, đối với bệnh tim, tức ngực uất ức, bệnh thực quản làm thức ăn không nuốt xuống được, nôn mửa không ngừng, v.v., đều có thể sử dụng.
Đản Trung (huyệt Mộ của Tâm bào): Bát hội huyệt khí hội Đản Trung, phàm tất cả các bệnh về khí như khí trệ, khí uất, khí thúc, khí suyễn, hô hấp khó khăn, đau ngực, ngực đầy tức, đều có thể sử dụng. Cần từ tứ chẩn phân biệt rõ chứng hư chứng thực, chứng hư thì mũi kim hướng lên, chứng thực thì mũi kim hướng xuống, gọi là nghênh tùy bổ tả. Phụ nữ sau sinh thiếu sữa, cứu Đản Trung hiệu quả, phụ nữ sinh con so hiệu quả tốt hơn phụ nữ sinh con rạ.
Thiên Đột: Ho do phong hàn, viêm phế quản mãn tính ở người già, viêm amidan châm Thiên Đột đều hiệu quả. Tìm đúng huyệt vị, trước tiên dùng tay móc mười mấy lần, để tránh ho khi châm. Đờm dãi tắc nghẽn cổ họng, khạc không ra, tắc nghẽn nguy cấp, có thể dùng ngón tay móc huyệt Thiên Đột, đờm đó tự dễ ho ra.
Thừa Tương: Bệnh vùng mặt, đau dây thần kinh tam thoa nhánh thứ ba, đau răng dưới, liệt mặt méo miệng nặng, tai biến mạch máu não giai đoạn đầu không nói được, đều có thể lấy dùng.
Trên đây lược cử mười chín huyệt thường dùng của "Nhất châm liệu pháp", thuộc về huyệt kinh của Đốc mạch và Nhâm mạch. Trong mười hai kinh, chỉ lấy một bên huyệt mà có hiệu quả còn nhiều.
(2) Ví Dụ Hai Huyệt
Mỗi lần điều trị, chỉ lấy hai huyệt, tức là chỉ châm hai kim. Trong các phương cổ nổi tiếng, ví dụ này cực kỳ nhiều.
Tứ tổng huyệt khi lấy huyệt đôi, gọi là hai huyệt.
Bát hội huyệt trừ Đản Trung, Trung Quản, sáu hội còn lại đều thuộc huyệt đôi.
Mã Đan Dương thập nhị châm, là phương pháp phối huyệt nổi tiếng, mỗi lần đều lấy hai huyệt, phối hợp lẫn nhau, hiệu quả tốt.
Phương pháp phối huyệt Nguyên-Lạc, lấy huyệt Nguyên của kinh bệnh phối với huyệt Lạc của kinh biểu lý, hiệu quả rất tốt.
Phương pháp phối huyệt Du-Mộ, bệnh lâu ngày lấy huyệt Du lưng tương ứng, phối với huyệt Mộ liên quan hiệu quả.
Bát mạch giao hội, tức Linh Quy Bát Pháp bát huyệt, phân thuộc kỳ kinh bát mạch, đều là hai huyệt phối hợp, tương hỗ tác dụng.
"Tiêu U Phú": "Kiên Tỉnh, Khúc Trì, Chân Quyền thích tý thống nhi phục xạ." (Chân Quyền châm Kiên Tỉnh, Khúc Trì chữa đau cánh tay mà phục hồi như bắn tên.)
"Tịch Hoằng Phú": "Đãn hoạn thương hàn lưỡng nhĩ lung, Kim Môn Thính Hội tật như phong." (Chỉ mắc thương hàn hai tai điếc, Kim Môn Thính Hội nhanh như gió.)
"Ngọc Long Phú": "Lão giả tiện đa, Mệnh Môn kiêm Thận Du nhi trứ ngải." (Người già đi tiểu nhiều, Mệnh Môn cùng Thận Du mà đặt mồi ngải.)
"Bách Chứng Phú": "Giáp Xa Địa Thương huyệt, chính khẩu oa vu phiến thời." (Huyệt Giáp Xa Địa Thương, chỉnh méo miệng trong chốc lát.)
Người xưa để lại cho chúng ta rất nhiều kinh nghiệm tốt về chữa bệnh bằng hai huyệt, liệu pháp châm cứu là một báu vật trong kho tàng y học cổ truyền phong phú đa dạng, chúng tôi sử dụng trong lâm sàng, rất có niềm vui thuận tay ứng nghiệm.
Trong điều trị lâm sàng hàng ngày của chúng tôi, ví dụ chỉ dùng hai huyệt chữa bệnh, nhiều không kể xiết.
Ví dụ: Hai huyệt Đại Hách chữa liệt dương, cảm giác kim thẳng đến cơ quan sinh dục ngoài; hai huyệt Chí Thất hoặc hai huyệt Âm Cốc chữa di tinh; hai huyệt Trung Cực, Quan Nguyên chữa đái dầm; hai huyệt Phong Trì chữa đau đầu; hai huyệt Thiên Xu trái phải chữa lỵ; Nhân Trung Dương Quan chữa đau lưng cột sống; hai huyệt Đới Mạch chữa khí hư trắng đỏ; hai huyệt Tử Cung chữa viêm phần phụ; hai huyệt Duy Bào chữa sa tử cung; hai huyệt Vị Du chữa đau dạ dày; hai huyệt Thần Đường chữa mất ngủ; hiệu quả tốt, ví dụ chỉ châm hai kim chữa bệnh nói không hết.
(3) Ví Dụ Ba Đường (Tuyến)
Căn cứ vào nhu cầu điều trị, huyệt vị lấy từ ba huyệt trở lên, dọc ngang xiên bao quanh, đều có thể nối thành một đường.
Đường thẳng: Đa phần thuộc huyệt cùng kinh. Ví dụ: Bệnh phổi lấy Trung Phủ, Hiệp Bạch, Kinh Cừ của kinh Phế.
Bệnh tim lấy Thiếu Phủ, Thần Môn, Thông Lý, Linh Đạo của kinh Tâm, dùng một kim từ Thần Môn xuyên thẳng đến Linh Đạo, một kim dưới da xuyên qua bốn huyệt, chữa mất ngủ, tim đập nhanh, thường xuyên dùng.
Đường ngang: Đường ngang đa phần là các huyệt phối hợp của mấy kinh mà nối thành một đường ngang.
Ví dụ: Bệnh thần chí lấy Thần Đạo, Tâm Du, Thần Đường. Thần Đạo là huyệt Đốc mạch, Tâm Du là hàng thứ nhất kinh Bàng quang, Thần Đường là hàng thứ hai kinh Bàng quang, năm huyệt nhìn ngang là một đường thẳng ngang. Sách "Nội Kinh" nói: "Tâm tàng thần", "Tâm giả quân chủ chi quan thần minh xuất yên" (Tâm là cơ quan quân chủ, thần minh từ đó mà ra). Thần Đạo ở trong Tâm Du, đúng như tên gọi là chữa bệnh về "thần". Bên ngoài Tâm Du tên là "Thần Đường", là tên huyệt lấy từ Tâm Du, mấy huyệt này dùng chung, có tác dụng tập trung hỏa lực, công phá trọng điểm. Nhưng trước tiên yêu cầu lấy huyệt phải chuẩn, năm huyệt này châm xong phải thành một đường ngang ngay ngắn, mới có thể gọi là tìm huyệt chính xác. Đau lưng lấy Mệnh Môn, Thận Du thì thành một đường ngang ngắn.
Đường xiên:
Phần trước đầu: Thượng Tinh, Bản Thần, Suất Cốc, thành một đường xiên gấp khúc.
Ngực: Đản Trung, Vân Môn, thành một đường xiên từ xương ức đến dưới nách.
Bụng: Kỳ Môn trái, Hoạt Nhục Môn, Đại Cự phải, Cư Liêu bốn huyệt, thành một đường xiên cong từ dưới sườn trái đi qua bụng, đi ngang đến bụng dưới bên phải, mà kết thúc ở vùng chậu phải.
Đường bao quanh: Khớp cổ tay, khớp khuỷu tay, đều có thể từ huyệt Nguyên và huyệt Hợp của sáu kinh tay nối thành đường bao quanh. Đo kinh lạc dùng huyệt Nguyên hoặc huyệt Hợp, rất tiện lợi. Xung quanh khớp gối, khớp cổ chân cũng có thể nối thành đường bao quanh, cần phải ở trong phạm vi hai thốn trên dưới gối mắt cá chân, vì huyệt vị xung quanh gối mắt cá chân, trên dưới xen kẽ, không ngay ngắn như huyệt vị ở cổ tay khuỷu tay. Các bộ phận ngực, lưng, bụng đều có thể nối thành huyệt bao quanh. Tùy ý chỉ một huyệt, liên tưởng đến các huyệt đường bao quanh của nó, cũng là phương pháp tốt để ôn tập kinh huyệt. Huyệt vị toàn thân chính là cứ điểm quan trọng để đấu tranh với bệnh tật, giống như bản đồ quân sự khi chiến tranh, không quen thuộc địa lý, không thể chỉ huy tác chiến. Dùng thuốc như dùng binh, xưa đã có lời dạy rõ ràng, dùng huyệt cũng không ngoại lệ.
(4) Bốn Mặt (Diện)
Bốn mặt chính là đem mấy huyệt lấy được trong một phạm vi không quá lớn, dùng đường nét đứt có thể nối thành các loại hình diện tích khác nhau. Ví dụ: Tứ Thần Thông thành hình vuông,
Tiền Đỉnh, Thông Thiên thành hình tam giác
Đại Chùy, Đại Trữ thành hình tam giác nhỏ;
Thân Trụ, Thần Đạo, một bên Tâm Du, thành hình tam giác xiên
Hai Tỳ Du, hai Vị Du, thành hình vuông dẹt
Hai Can Du, hai Thận Du, thành hình chữ nhật dài;
Trường Cường, Hội Dương, thành hình tam giác ngược nhỏ;
Dương Quan, Chí Thất, thành hình tam giác ngược lớn;
Trung Quản, Kỳ Môn, Đại Cự, gọi là đại ngũ trụ, Thủy Phân, Hoang Du, Đại Cự, thành hình Nhạn Tháp (tháp nhạn);
Hoạt Nhục Môn, Hoang Du, Khí Hải, thành hình đảo Nhạn Tháp.
Huyệt vị gần nhau toàn thân, đều có thể nối thành nhiều hình dạng khác nhau, gọi là bốn mặt. Tổng thể gọi là "phương pháp lấy huyệt một điểm, hai huyệt, ba đường, bốn mặt".
Có người đặt câu hỏi nói: "Tôi không hiểu châm cứu, ông đề xuất những tên gọi điểm, đường, mặt này, kỳ lạ cổ quái, có phải là cố làm ra vẻ huyền bí, khiến người ta không đoán được sự cao siêu của nó không?"
Tôi trịnh trọng trả lời: "Không phải. Châm cứu có mấy mấu chốt, đầu tiên là kinh huyệt, trước tiên phải làm rõ đường đi của kinh lạc, sau đó phải nắm rõ như lòng bàn tay hơn ba trăm sáu mươi huyệt của mười bốn kinh.
Phương pháp tìm huyệt theo kinh phải quen thuộc kinh nào bao nhiêu huyệt, đếm xuôi đếm ngược, như xem vân trên lòng bàn tay, có thể nhắm mắt tìm huyệt không sai một ly, đồng thời có thể sắp xếp ngang, sắp xếp xiên các kinh huyệt gần đó, tùy tiện nói ra huyệt nào, có thể ứng tiếng tìm được, đồng thời cũng có thể chỉ ra chính xác các kinh huyệt khác gần đó.
Đúng như "Tiêu U Phú" nói: "Thủ ngũ huyệt dụng nhất huyệt diện tất đoan, thủ tam kinh dụng nhất kinh diện khả chính" (Lấy năm huyệt dùng một huyệt mặt tất ngay ngắn, lấy ba kinh dùng một kinh mặt có thể thẳng), chính là để thầy thuốc châm cứu trước tiên phải nắm vững kinh lạc và kinh huyệt, làm kiến thức cơ bản vững chắc. Lại ví dụ như đi tham quan tình hình thực tế lâm sàng châm cứu, xem cái gì?
Trước tiên xem kim cụ của họ, tức cái gọi là "tiên lệnh châm diệu, nhi lự châm tổn" (trước làm cho kim sáng bóng, mà lo kim hư hỏng). Kim dùng sáng bóng lóa mắt, không gỉ không cong, thì trước tiên đã cho người ta cảm giác dễ chịu đẹp mắt.
Thứ hai xem huyệt họ tìm có chuẩn không, sau khi châm, góc độ của kim có thẳng không, mấy huyệt nối liền với nhau, có phải một huyệt thành điểm, hai huyệt thành đôi, ba huyệt trở lên thành đường, huyệt ở cự ly gần thành mặt, từ đây có thể thấy được công phu cơ bản có vững chắc không. Đây là tổng kết kinh nghiệm, đồng thời gợi ý cho người ta cách rèn luyện công phu cơ bản, ông thấy thế nào?"
Khách gật đầu lia lịa, mỉm cười mà đi.
Giới thiệu về tác giả: Bắt đầu từ năm 1930, sau khi hoàn thành việc học nghề. Ông cũng từng làm "tiên sinh tọa đường" tại hiệu thuốc "Tích Thịnh Hòa" ở Thẩm Dương gần 20 năm.
Bác sĩ tại Phòng khám Trung y, Bệnh viện trực thuộc Đại học Y khoa Trung Quốc: Năm 1951, ông được mời đến đây làm việc và được xem là "người thứ nhất của Trung y quốc lập".
Giảng viên tại Học viện Trung y tỉnh Liêu Ninh (nay là Đại học Trung y dược Liêu Ninh): Ông được điều về đây để giảng dạy.
Phó Viện trưởng Bệnh viện trực thuộc Học viện Trung y tỉnh Liêu Ninh: Kiêm nhiệm cùng với công tác giảng dạy.
Người đứng đầu các tổ chức nghiên cứu khoa học: Sau này, ông được bầu làm người đứng đầu một loạt các tổ chức, ví dụ như Hội Nghiên cứu Các Phương pháp Châm cứu Đặc biệt Thế giới.
Chuyên gia/Giảng viên Nhãn Châm Liệu Pháp: Ông được mời đi giảng dạy và biểu diễn Nhãn Châm Liệu Pháp tại nhiều nơi trong nước (Thâm Quyến, Bắc Kinh, Côn Minh, Thượng Hải, Nam Kinh, v.v.) và quốc tế (Nhật Bản). Ông cũng ứng dụng nhãn châm tại "Trung tâm Điều trị Bệnh nan y Liêu Ninh - Thâm Quyến".
Ông được giới y học Nhật Bản tôn vinh là "Bách Thế Sư Tôn" ( Người thầy của muôn đời). Ông Aoyagi Osamu, ủy viên Hội Y học Trung Quốc Nhật Bản, đại diện cho giới Trung y Nhật Bản đã kính dâng ông Bành Tịnh Sơn một tấm biển vàng bái sư, khắc chữ Hán "Bách Thế Sư Tôn".
Đây là một sự công nhận và tôn vinh vô cùng lớn lao từ giới y học Nhật Bản, thể hiện sự kính trọng sâu sắc đối với tài năng và đóng góp của ông.