Mười Hai Tễ Trong Đơn Huyệt Châm Cứu - giáo sư Bành Tịnh Sơn
Trung Y Bút Ký

(1) Bổ khả phù nhược (Bổ có thể trợ giúp cái yếu)
Ví dụ: Đại Chùy, Đào Đạo chữa dương hư mà kích thích đốc mạch, làm cho eo lưng cột sống cứng cáp. Cứu Cao Hoang chữa bệnh phổi hư suy. Thường cứu Túc Tam Lý để kiện vị mà tăng ăn uống thêm khỏe mạnh. Hoặc dùng các loại thủ pháp bổ, mà làm cho cơ thể chuyển từ yếu thành mạnh.
(2) Trọng khả trấn nghịch (Nặng có thể trấn áp cái nghịch)
Ví dụ: Co thắt cơ hoành, khí nghịch lên mà nấc cụt không ngừng. Lấy Nội Quan để trị khí trệ trong ngực, thêm Đản Trung là "khí hội" trong bát hội huyệt, lại thêm Nhật Nguyệt châm xiên lên trên gần chỗ bám của cơ hoành. Dùng tả pháp nặng, là có thể ngăn chặn co giật.
(3) Khinh khả khứ thực (Nhẹ có thể trừ bỏ cái thực)
Ví dụ: Can dương thượng cang, huyết áp tăng, đầu mắt huyễn vựng. Lấy Cách Du là "huyết hội" trong bát hội huyệt, tìm đúng huyệt vị, hai bên mỗi bên gài một cây bì nội châm, 10 giây sau, huyết áp hạ xuống, dùng nhiều lần đều hiệu quả.
(4) Tuyên khả quyết ung (Thông có thể giải quyết tắc nghẽn)
Ví dụ: Đờm dãi tắc nghẽn ở cổ họng, khạc không ra, khí bị đờm ứ tắc, hô hấp khó khăn, uất ức khó chịu. Dùng ngón tay móc huyệt Thiên Đột, một móc một nâng, liên tục vài lần, đờm đó tự nhiên sẽ khạc ra được.
(5) Thông khả hành trệ (Thông có thể làm lưu thông cái trì trệ)
Ví dụ: Bệnh lỵ đi ngoài ra mủ máu, lý cấp hậu trọng (mót rặn), luôn cảm giác muốn đi ngoài mà không đi được, khiến bệnh nhân không thể chịu đựng. Y học cổ truyền thường gọi là "trệ hạ". Lấy huyệt Mộ của kinh Tam Tiêu là Thạch Môn, phối hợp với huyệt Mộ của kinh Đại Trường là Thiên Xu, vận dụng tả pháp, là có thể tiêu trừ ứ trệ, giảm triệu chứng, vài lần có thể khỏi.
(6) Sáp khả cố thoát (Sáp có thể cố định cái bị thoát ra)
Ví dụ: Sa trực tràng (thoát giang), châm Trường Cường, Nhị Bạch, cứu Bách Hội, có thể làm cho hậu môn đã thoát ra được thu co lại nhanh chóng. Bách Hội, Trường Cường đều là huyệt ở phần trên của Đốc mạch, cứu Bách Hội là "bệnh ở dưới mà chữa ở trên", châm Trường Cường là "lấy huyệt cục bộ", kích thích thành ruột, tự dễ thu co. Huyệt Nhị Bạch gần kinh Đại Trường, thông qua chức năng "nội liên tạng phủ" (liên kết bên trong với tạng phủ) của kinh lạc, có thể thu sáp đoạn cuối của Đại trường đã bị thoát ra.
(7) Hoạt khả khứ trứ (Trơn hoạt có thể loại bỏ cái bám chắc)
Ví dụ: Nang bao hoạt dịch, do bong gân trật khớp, thường nổi lên một cục nhỏ ở cổ tay, ấn vào thấy mềm, nhưng không di chuyển được. Chữ "trứ" (著) đồng nghĩa với "trứ" (着), như "trứ lạc" (định vị). Cố định ở một chỗ. Dùng tay trái ấn chặt khối nang, dùng hào châm châm ngang bốn phía ở gốc nang, theo kim ép ra chất lỏng nhớt trơn giống như nước mũi. Vài lần sau, nang tự tiêu. Lại ví dụ như châm Tứ Phùng, chữa trẻ em bụng to gân xanh. Ép ra chất lỏng nhớt, bụng đó dần tiêu đi, ăn uống ngày càng tăng.
(8) Tả khả khứ bế (Tả có thể thông cái bế tắc)
Ví dụ: Đại tiện bí kết, có loại do vị trường thực nhiệt, có loại do ăn uống tích đờm, có loại do tân dịch khô kiệt mà táo bón. Sách "Châm Cứu Đại Thành" có hạ pháp, châm Tam Âm Giao, dùng hô hấp tả pháp, có thể thông đại tiện. Nếu ở huyệt Phúc Kết bên trái gài một cây bì nội châm, huyệt vị tìm chuẩn, có thể đi ngoài ngay trong ngày.
(9) Thấp khả thắng táo (Ẩm thấp có thể thắng khô táo)
Bệnh táo phát ra bên ngoài, da khô héo, nếp nhăn chồng chất; phát ra bên trong, vô cớ buồn bã, tinh thần thất thường, gọi là tạng táo. Bên trong thì tiêu hao tân dịch, mà làm cho đại tiện khô. Phân biệt có phong táo, hỏa táo, nhiệt táo, nguyên nhân luôn là khí hư huyết thiếu, thì sinh nhiệt mà thành bệnh táo. Phương pháp điều trị, nên tìm nguyên nhân gây bệnh. Bổ khí sinh huyết, tư dưỡng tân dịch. Khí hội ở bụng giữa (Trung Quản), huyết hội ở Cách Du. Lấy Đản Trung để hành khí, chọn Cách Du để dưỡng huyết, lấy Thái Khê để sinh tân. Tân dịch đầy đủ, bệnh táo tự trừ.
(10) Táo khả thắng thấp (Khô ráo có thể thắng ẩm thấp)
Sách "Nội Kinh" nói "Chư thấp thũng mãn, giai thuộc vu tỳ." (Các chứng sưng đầy do thấp, đều thuộc về Tỳ.) Có thể xảy ra trung mãn (bụng đầy), phù thũng, bí tiểu, chàm da, v.v. Nguồn bệnh ở Tỳ và kinh Vị có quan hệ biểu lý với nó. Chọn dùng huyệt Hợp, huyệt Nguyên của Tỳ, Vị như Âm Lăng Tuyền, Túc Tam Lý, Thái Bạch và huyệt Thủy Tuyền của kinh Thận, v.v., đều có thể thông kinh hoạt lạc, làm cho Tỳ Vị vượng thịnh, Thận dương sung túc, tự có thể thắng thấp mà trừ bệnh.
(11) Nhiệt khả khứ hàn (Nóng có thể trừ lạnh)
Sách "Nội Kinh" nói: "Chư hàn thu dẫn, giai thuộc vu thận." (Các chứng co rút do lạnh, đều thuộc về Thận.) Cho nên Thận là gốc rễ của mọi bệnh hàn. Trừ hàn chủ yếu nằm ở chức năng của tạng phủ, Vương Băng nói: "Ích hỏa chi nguyên, dĩ tiêu âm ế; tráng thủy chi chủ, dĩ chế dương quang." (Bổ gốc của hỏa, để tiêu tan âm u; làm mạnh chủ của thủy, để chế ngự dương quang.) Cái trước là phù dương ức âm để trừ hàn, cái sau là bổ âm tìm dương để trừ nhiệt. Huyệt vị chính để trừ hàn là Thận Du, Quan Nguyên.
Thận Du: Y học cổ truyền, "Thận vi tiên thiên chi bản" (Thận là gốc của tiên thiên), phàm các bệnh của tạng trong khoang bụng dưới thắt lưng và chi dưới, đau không di chuyển, yếu, không thể co duỗi, mệt mỏi. Đặc biệt là các chứng hàn của Thận, Bàng quang, cơ quan sinh dục, Đại trường, Trực tràng ở bụng dưới, châm cứu Thận Du, có thể thấy công hiệu.
Quan Nguyên: Còn gọi là Đan Điền, nguyên khí của tiên thiên, tức là sinh mệnh lực tiên thiên, nằm ở đây. Tay ấn vào cảm giác có khí hoạt động, không mạnh không yếu, bình tĩnh là tốt. Chủ trị bệnh phụ nữ, các bệnh về cơ quan sinh dục, tiết niệu ở nam giới có hiệu quả rõ rệt. Đặc biệt là các chứng bụng dưới thường cảm thấy hư lạnh, tiểu tiện trắng đục, bệnh lậu, di tinh, liệt dương, v.v., cứu Quan Nguyên có thể trừ hàn mà bổ nguyên dương.
Thân nhiệt quá thấp, thuộc hư hàn: Cứu Thần Khuyết, Khí Hải, Đại Chùy, Túc Tam Lý, v.v. là tốt nhất.
Hồi dương cửu châm: "Á Môn, Lao Cung, Tam Âm Giao, Dũng Tuyền, Thái Khê, Trung Quản tiếp, Hoàn Khiêu, Tam Lý, Hợp Cốc tịnh, thử thị hồi dương cửu châm huyệt." (Đây là chín huyệt hồi dương.) Chữa tứ chi quyết nghịch, tức là tay chân lạnh như băng, da trắng bệch, thậm chí hôn mê. Khi điều trị, không nhất thiết dùng cả chín huyệt, chọn 3-4 huyệt, hoặc châm hoặc cứu, đến khi hàn lui dần ấm lại, trừ âm hồi dương thì thôi.
(12) Hàn khả chế nhiệt (Lạnh có thể chế ngự nóng)
Kinh huyệt có nhiều phương pháp chế ngự nhiệt, lược cử vài ví dụ như sau:
Huyệt hạ sốt toàn thân thường dùng: Đại Chùy, Đào Đạo, Thân Trụ, Phong Môn, Phế Du, Khúc Trì, Hợp Cốc, Túc Tam Lý.
Huyệt hạ sốt phát hãn (ra mồ hôi) cho sốt cao cấp tính: Huyệt Thập Tuyên, Thập nhị Tỉnh huyệt, Phục Lưu, Hợp Cốc, Dũng Tuyền.
Huyệt chữa sốt cao cấp tính: Phong Phủ, Phong Trì, Hợp Cốc, Phục Lưu, Thái Bạch, Nội Đình.
Huyệt chữa sốt nhẹ mãn tính: Gian Sử, Ngư Tế, Dũng Tuyền, Phục Lưu, Túc Tam Lý.
Sốt cách nhật: Phong Phủ, Phong Trì, Ngoại Quan, Dương Trì, Dịch Môn, Hiệp Khê.
Phương pháp lấy huyệt, mỗi lần chọn 2-3 huyệt, luân phiên sử dụng, biện chứng thi trị, phát hiện triệu chứng của kinh nào rõ rệt, chọn huyệt của kinh đó tốt hơn.
Giới thiệu về tác giả: Bắt đầu từ năm 1930, sau khi hoàn thành việc học nghề. Ông cũng từng làm "tiên sinh tọa đường" tại hiệu thuốc "Tích Thịnh Hòa" ở Thẩm Dương gần 20 năm.
Bác sĩ tại Phòng khám Trung y, Bệnh viện trực thuộc Đại học Y khoa Trung Quốc: Năm 1951, ông được mời đến đây làm việc và được xem là "người thứ nhất của Trung y quốc lập".
Giảng viên tại Học viện Trung y tỉnh Liêu Ninh (nay là Đại học Trung y dược Liêu Ninh): Ông được điều về đây để giảng dạy.
Phó Viện trưởng Bệnh viện trực thuộc Học viện Trung y tỉnh Liêu Ninh: Kiêm nhiệm cùng với công tác giảng dạy.
Người đứng đầu các tổ chức nghiên cứu khoa học: Sau này, ông được bầu làm người đứng đầu một loạt các tổ chức, ví dụ như Hội Nghiên cứu Các Phương pháp Châm cứu Đặc biệt Thế giới.
Chuyên gia/Giảng viên Nhãn Châm Liệu Pháp: Ông được mời đi giảng dạy và biểu diễn Nhãn Châm Liệu Pháp tại nhiều nơi trong nước (Thâm Quyến, Bắc Kinh, Côn Minh, Thượng Hải, Nam Kinh, v.v.) và quốc tế (Nhật Bản). Ông cũng ứng dụng nhãn châm tại "Trung tâm Điều trị Bệnh nan y Liêu Ninh - Thâm Quyến".
Ông được giới y học Nhật Bản tôn vinh là "Bách Thế Sư Tôn" ( Người thầy của muôn đời). Ông Aoyagi Osamu, ủy viên Hội Y học Trung Quốc Nhật Bản, đại diện cho giới Trung y Nhật Bản đã kính dâng ông Bành Tịnh Sơn một tấm biển vàng bái sư, khắc chữ Hán "Bách Thế Sư Tôn".
Đây là một sự công nhận và tôn vinh vô cùng lớn lao từ giới y học Nhật Bản, thể hiện sự kính trọng sâu sắc đối với tài năng và đóng góp của ông.